Bóng Tối không át được Ánh Sáng

 

 

“C

ó thể nói, Chúa Kitô không tử nạn không thực là Chúa Kitô thế nào, th́ Kitô giáo không bị bắt bớ không là Kitô giáo như vậy” (Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Mùa Xuân Gieo Tin Mừng Cứu Độ, Diễn Đàn Kitô Hữu, 1999, trang 17-18).

 

Chính v́ thấy trước được thân phận của thành phần chứng nhân tiên khởi là các Tông Đồ của ḿnh như thế, Chúa Giêsu đă khẳng định và tiên báo cho các vị biết trong Bữa Tiệc Ly rằng:

 

·        Các con hăy nhớ lại những ǵ Thày đă nói với các con, đó là không tôi tớ nào hơn được chủ của ḿnh. Họ sẽ bắt bớ các con như họ đă bắt bớ Thày. Họ sẽ tôn trọng lời của các con bởi họ tôn trọng lời của Thày. Họ làm cho các con tất cả những điều này v́ danh Thày, v́ họ không biết Đấng đă sai Thày” (Jn 15:20-21).

 

Đối với riêng Phêrô, sau khi báo trước thân phận sẽ bị bắt bớ của vị tông đồ trưởng này, Chúa Giêsu liền kêu gọi: “Hăy theo Thày” (Jn 21:19). Tức là hăy theo Chúa Kitô cho tới cùng, cho tới chỗ “đứng bên thập giá” (Jn 19:25) như Mẹ Maria, Đấng “có phúc v́ đă tin” (Lk 1:45). Bởi v́, Kitô hữu là ai, nếu không phải là thành phần “chấp nhận Người” (Jn 1:12) và trung thành với đức tin của ḿnh vào Người, được thể hiện qua việc theo Người cho tới cùng, như Sách Khải Huyền diễn tả về thành phần Kitô hữu đích thực: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đi đến nơi nào Con Chiên tới” (Rev 13:4), đến nỗi “giặt áo ḿnh cho tinh trắng trong máu của Con Chiên” (Rev 7:14).

 

Thế nhưng, tại sao thân phận Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô lại gắn liền với “những cuộc thử thách kinh hoàng” (Rev 7:14) đến độ phải “giặt áo ḿnh” (một cách hùng hồn và hiển nhiên nhất là tử đạo) như vậy mới được? Chúa Giêsu cũng đă cho các người môn đệ đầu tiên thân tín nhất của Người, thành phần làm nên nền tảng của Giáo Hội Người (x. Eph 2:20) sau này, biết căn nguyên như sau:

 

·        Nếu các con thấy rằng thế gian thù ghét các con th́ hăy biết rằng họ đă thù ghét Thày trước các con rồi. Nếu các con thuộc về thế gian ắt hẳn thế gian đă yêu thương các con như của riêng nó; lư do thế gian thù ghét các con là v́ các con không thuộc về thế gian. Mà Thày đă chọn các con ra khỏi thế gian” (Jn 15:18-19)

Đúng thế, lư do chính yếu của tất cả mọi cuộc bắt đạo và tử đạo ở khắp mọi nơi từ trước đến nay xẩy ra cho thành phần Kitô hữu là chỉ v́ Kitô hữu “các con không thuộc về thế gian”, thế thôi. Thực tế đă hùng hồn chứng minh chân lư hết sức xác đáng này. Ở chỗ, không phải hễ chỗ nào trên thế giới ra tay bắt đạo Kitô giáo cũng giống như trường hợp ở Việt Nam thời phong kiến hồi thế kỷ XVII và XVIII, hay thời Nhà Nguyễn hồi thế kỷ XIX, tức bao giờ cũng liên quan đến t́nh h́nh chính trị, đến chủ nghĩa tư bản và đến mưu đồ thực dân. Thật ra, ngay từ thế kỷ đầu của lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, từ năm 1533 tới 1630, không hề có một cuộc bắt đạo nào. Thêm vào đó, việc bắt đạo và sát đạo ở Việt Nam không phải do bởi dân chúng gây ra cho nhau, mà hoàn toàn do bởi chính quyền (phong kiến Trịnh-Nguyễn và triều đ́nh Nhà Nguyễn); cho dù có do bởi dân chúng đi nữa, như bởi một số cá nhân thuộc Phong Trào Văn Thân, th́ cũng chỉ v́ họ dính dáng đến t́nh h́nh chính trị bấy giờ.

 

Thế nên, có thể kết luận là chính trị chỉ là cái cớ bắt đạo và sát đạo ở Việt Nam trước đây mà thôi, căn nguyên sâu xa của những cuộc bắt đạo và sát đạo ở Việt Nam chính là đạo lư Kitô giáo không hợp với văn hóa Khổng giáo ở Việt Nam bấy giờ; vấn đề đường lối truyền giáo thất sách của các vị thừa sai, hay Kitô giáo là đạo của Tây phương cũng chỉ là những cái cớ mạnh khác. Thật ra, nếu Kitô giáo được thành phần thuần túy Việt Nam, như Nho gia Nguyễn Trường Tộ theo đạo Công Giáo từ nhỏ, truyền bá đi nữa, cũng vẫn không thoát được những trang sử đẫm máu. Như trường hợp ở Triều Tiên là nơi ngay từ đầu được chính dân bản xứ truyền giáo lấy, thế mà, trong một xă hội theo văn hóa Khổng giáo bấy giờ họ vẫn bị bắt và sát đạo khủng khiếp vào những năm 1827, 1839, 1846, nhất là vào thời đoạn 1860-1873, kết quả 103 Vị Tử Đạo năm 1866 đă được Giáo Hội phong thánh năm 1984. Trường hợp các Tông Đồ người Do Thái giảng đạo cho dân ḿnh cũng không ngoại lệ. Vị Tông Đồ Dân Ngoại lừng danh Phaolô, với phương pháp giảng đạo rất hợp với ư hệ dân Hy Lạp bấy giờ, song vẫn không thành công ở Công Nghị Nhă Điển (x. Acts 17:32).

 

Thật vậy, lịch sử đă tỏ tường cho thấy chính v́ đạo lư của Kitô giáo, chứ không phải căn nguyên do bởi bất cứ một lư do ngoại tại (được gọi là cái cớ) nào khác. Bởi thế, ngay từ đầu cho tới hiện nay (trước ngưỡng cửa của Ngàn Năm Thứ Ba là năm 1999 đây), Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng vẫn là mục tiêu chống đối của một số thành phần thuộc các tôn giáo khác.

 

Về Do Thái giáo, hầu hết đă tỏ ra chống đối Kitô giáo. Ngay từ đầu, họ đă đặt vấn đề Kitô hữu phải chịu phép cắt b́ theo luật Moisen nữa mới được cứu rỗi (xem Tông Vụ 15:1)? Trước đó, chính các Vị Tông Đồ cũng đă bị giáo quyền Do Thái bắt bớ và cấm cách gắt gao không cho giảng đạo (xem Tông Vụ 4:1-23; 5:17-42). Chính giáo quyền và dân chúng Do Thái đă ném đá Thày Sáu Stêphanô, Vị Tử Đạo tiên khởi của Kitô giáo (xem Tông Vụ 6:8-15; 7:1-60). Cả chính quyền Do Thái là Hêrôđê bấy giờ cũng nhúng tay vào việc sát đạo, qua việc lấy đầu Tông Đồ Giacôbê anh em của Tông Đồ Gioan, rồi bắt giam Vị Trưởng Tông Đồ Đoàn Phêrô (xem Tông Vụ 12:1-23). Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, một con người sùng mộ Do Thái giáo trước kia, đến nỗi đă hăng say xung phong đi diệt trừ những người theo Kitô giáo (xem Tông Vụ 8:3; 9:1-4), cũng đă bị chính dân ḿnh chống đối và hăm hại ở khắp mọi nơi (xem Tông Vụ 18:12-13; 21:27-40; 22:1-30; 23:1-35; 24:1-27; 25:1-27; 26:1-32).

 

Việc Do Thái giáo chống đối Kitô giáo như thế hoàn toàn là do bởi họ “không chấp nhận Người” (Jn 1:11), “Lời đă hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Jn 1:14), tức là họ đă không chấp nhận nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai hay là Đức Kitô. Thế nhưng, chính việc tín đồ Do Thái giáo “không chấp nhận” Đức Kitô như thế đă là một bằng cớ hiển nhiên nhất chứng thực là đă có một nhân vật lịch sử mang danh Giêsu, Đấng đă xưng ḿnh “chính là” (Mk 14:62) Con Thiên Chúa, nên đă bị họ dùng tay dân ngoại đóng đanh trên thập giá, song Người cũng chính là Đấng tự ḿnh sống lại từ trong kẻ chết, cho dù họ có lo sợ cho người canh gác cẩn thận mồ của Người (xem Mt 27:62-66, 28:11-15).

 

Hậu quả của việc dân Do Thái giáo “không chấp nhận” Chúa Kitô đă xẩy ra đúng như lời Người báo cho các môn đệ của Người biết trước khi Người tiến vào thành Giêrusalem lần cuối cùng để vĩnh viễn hoàn tất sứ vụ cứu thế của Người:

 

·        Khi tiến đến chỗ thấy được cảnh trí của thành, Người đă khóc thương thành mà nói: ‘Giá mà hôm nay ngươi biết được những ǵ mang lại cho người an b́nh; song ngươi lại hoàn toàn bị che khuất không thấy được ǵ hết! Sẽ có những ngày xẩy ra cho ngươi là ngươi bị quân thù đắp lũy bủa vây, phong tỏa ngươi và công hăm ngươi tứ phía. Họ sẽ loại trừ ngươi, ngươi và cả con cháu ngươi trong thành, và không c̣n để một ḥn đá nào trên ḥn đá nào nơi ngươi, v́ ngươi đă không nhận ra thời điểm ngươi được viếng thăm” (Lk 19:41-44).

 

Những lời tiên báo trên đây của Chúa Kitô đă được Phúc Âm Thánh Luca ghi lại từ hậu bán thập niên 60 AD của thế kỷ thứ nhất, cũng là những lời đă thực sự xẩy ra vào năm 70 AD, khi tướng Titô thuộc đế quốc Rôma đến chiếm phá và hoàn toàn thiêu rụi đền thờ này.

 

Về Hồi giáo, cho đến ngày nay, nhất là thành phần lănh đạo có thẩm quyền về tôn giáo, vẫn c̣n có thái độ hết sức ác cảm với Kitô hữu. Một nghị phụ tham dự Thượng Hội Giám Mục Âu Châu lần hai (1-23/10/1999), đó là Đức Tổng Giám Mục Giuseppe Germano Bernardini, OFM.Cap, vị cho biết ḿnh “đă từng sống ở Thổ Nhĩ Kỳ 42 năm qua, một xứ sở có 99.9% Hồi giáo, và đă làm Tổng Giám Mục ở Izmir, Tiểu Á, 16 năm”, tiết lộ về “ba trường hợp” điển h́nh như sau: “Trong một cuộc họp đối thoại liên tôn chính thức giữa Hồi giáo và Kitô giáo, một vị thẩm quyền Hồi giáo nói một cách rất lạnh lùng và cương quyết với tham dự viên Kitô giáo rằng:

 

·        Nhờ các khoản luật dân chủ của các người, chúng tôi sẽ xâm chiếm các người; nhờ các luật lệ tôn giáo của các người, chúng tôi sẽ thống trị các người’

Điều này đáng tin v́ ‘việc thống trị’ đă được bắt đầu bằng ‘những đồng mỹ kim bơm xăng rồ máy’ không phải để thực hiện công việc tại các xứ sở nghèo ở Bắc Phi Châu hay Trung Đông mà là để xây cất những đền thờ và trung tâm văn hóa ở các xứ sở Kitô giáo có di dân Hồi giáo, kể cả ở Rôma, trung tâm Kitô giáo. Trong một cuộc họp đối thoại khác giữa Hồi giáo và Kitô giáo, một cuộc họp bao giờ cũng do Kitô giáo đứng ra tổ chức, một tham dự viên Kitô giáo công khai hỏi những người Hồi giáo hiện diện bấy giờ là tại sao họ không tổ chức ít là một buổi họp như thế. Một vị có thẩm quyền Hồi giáo ở đó đă đáp lại bằng những lời lẽ sau đây:

 

·        Tại sao chúng tôi lại phải làm điều này chứ? Các người chẳng có ǵ dạy chúng tôi cả và chúng tôi cũng không cần phải học hỏi chi hết’

 

Tại một đan viện Công giáo ở Giêrusalem có một nhân công người Ả Rập theo Hồi giáo – có lẽ vẫn c̣n ở đó – Ông ta là một người tốt lành và đáng kính, được các tu sĩ ở đó hết sức kính trọng, cũng tỏ ra kính trọng các vị ấy. Một ngày kia anh ta đă buồn ḷng nói với các vị ấy là:

 

·        Các vị lănh đạo của chúng tôi đă hội nhau và quyết định là tất cả những kẻ bất trung đều phải bị giết chết hết, thế nhưng, quí vị đừng sợ, tôi sẽ giết quí vị mà không làm cho quí vị phải đau đớn ǵ hết’…”

 

(Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ, 17/11/1999, trang 15).

Về Ấn giáo, gần đây một số cũng đă bắt đầu tỏ ra lo sợ đến nỗi có thái độ kỳ thị và phản kháng Giáo Hội Công giáo một cách kịch liệt công khai ra mặt. Trong số báo 84 tháng 12/1999, tờ Nguyệt San Hiệp Nhất của Cộng Đồng Công Giáo Giáo Phận Orange, qua bài “Thành Quả Chuyến Đi Ấn Độ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II” của tác giả Lữ Giang, đă cho biết như sau:

 

·        Theo bản báo cáo sau cùng của ‘Diễn Đàn Thống Nhất Kitô về Nhân Quyền’ (United Christian Forum for Human Rights), trong năm 1998 đă có 139 vụ bạo hành chống lại các tín hữu Kitô, trong số này có 84 trường hợp xẩy ra trong miền Gujarat. 5 Nữ Tu bị cưỡng hiếp; 9 bị giết và 25 bị đánh đập; 16 Linh Mục hoặc Mục Sư bị sát hại; 11 nhà thờ bị phá hủy. Hôm thứ Tư 1/09/1999 vừa qua, Linh Mục Arul Doss đă bị 6 người lạ mặt mang cung tên tấn công tại quận Mayurbhanj, nằm cách thủ phủ Bhuhaneshwar của bang Orissa khoảng 120 kilômét về phía Bắc. Cảnh sát địa phương nói rằng Linh Mục Arul Doss đă chết v́ những thương tích do những kẻ lạ mặt gây ra. Hai nhà thờ tại làng Lapdung, một tại Lingjong, một tại Simle và một tại Tipling đă bị triệt hạ trong hai đêm cuối tháng 8 tại khu vực Tamang đông Kitô hữu người sắc tộc. Những người Kitô hữu sắc tộc tại làng Tipling và chung quanh làng này ở quận Dhading, miền tây bắc thung lũng Kathmandu, đă nhóm họp ngoài đồng để cầu nguyện, v́ năm nhà thờ ở đây đă bị phá hủy

 

“Ông Tamang, một nhân chứng của các vụ khủng bố người Công Giáo cho biết t́nh h́nh căng thẳng bắt đầu nổi lên hồi tháng 5/1999 khi một vị lănh đạo dân làng địa phương kêu gọi người dân từ bỏ Kitô Giáo bằng cách đe dọa không cung cấp thuốc men và các tiện ích khác của chính phủ cho những ai không nghe theo lời họ. Tuy nhiên, theo Tamang, các Kitô hữu nói ‘họ thà chết c̣n hơn từ bỏ đức tin’. Khi nghe những lời đe dọa trên, những Kitô hữu cao tuổi cũng rời khỏi một trung tâm y tế trong vùng. Họ bảo rằng họ phải cầu nguyện để được chữa lành hơn là đến trung tâm xin thuốc. Tamang ghi nhận có tin cho biết những trường hợp được chữa lành nhờ ḷng tin đă giúp người dân làng theo Kitô Giáo.

 

“Các tổ chức của Giáo Hội và giáo dân thường nhận được những lời đe dọa như: ‘Chúng ta sẽ giết các Linh Mục, bắt cóc và hăm hiếp các Nữ Tu; chúng ta sẽ làm cho tất cả trở lại Ấn Giáo’. Nhưng Đức Tổng Giám Mục Alan de Lastic lưu ư rằng những hành động này chỉ do một số người quá khích muốn áp đặt ư thức hệ của họ, một tôn giáo duy nhất cho toàn nước, bằng việc lạm dụng danh nghĩa ‘Ấn Độ giáo’”.

 

Về Phật giáo, một tôn giáo đă bị lợi dụng trong thời Đệ Nhất Cộng Ḥa Việt Nam để tấn công cá nhân Vị Tổng Thống Công Giáo Ngô Đ́nh Diệm nói riêng và khối Công Giáo nói chung. T́nh h́nh bấy giờ căng thẳng đến nỗi, thậm chí sau khi Tổng Thống Diệm đă bị hạ màn rồi mà khối dân Công Giáo các nơi, như người viết được chứng kiến ở Thủ Đức vào năm 1964-1965, vẫn c̣n phải thành lập những lực lượng tự vệ để pḥng hờ thảm kịch Văn Thân tái diễn. Tác giả của bài báo trên đây cũng đă tŕnh bày cho thấy “Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam” (nhan đề của cuốn sách được xuất bản năm 1994 ở những trang 461, 466, 464, 466-467, 468-469, 471) này như sau:

 

·        Sau khi tŕnh bày diễn tiến của bốn cuộc thánh chiến do nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung phát động và những bí ẩn đàng sau các cuộc thánh chiến đó, chúng ta nhận thấy những điểm sau đây:

 

“Nhóm Phật Giáo cực đoan miền Trung luôn nói rằng họ chỉ tranh đấu cho quyền tự do và b́nh đẳng về tôn giáo chứ không nhắm các mục tiêu chính trị. Nhưng nh́n qua các cuộc thánh chiến do nhóm này phát động từ năm 1963 đến nay, chúng ta thấy mục tiêu mà nhóm đưa ra đă thay đổi mỗi khi chuyển từ giai đoạn này qua giai đoạn khác. Dưới thời chính phủ Ngô Đ́nh Diệm, mục tiêu được dựng nên là chống đàn áp Phật Giáo, đ̣i tự do và b́nh đẳng tôn giáo. Khi chính phủ Ngô Đ́nh Diệm vừa sụp dổ, mục tiêu quay sang diệt ‘dư đảng Cần Lao’. Tiếp theo là đ̣i tự do dân chủ, rồi đến đ̣i bảo vệ Hiến Chương Phật Giáo. Sau khi Công Sản chiếm được miền Nam, mục tiêu lúc đầu là đ̣i được ‘cải tạo theo chủ nghĩa cộng sản’, để thống nhất Phật Giáo toàn quốc, sau đó biến qua đ̣i quyền tự do tôn giáo.

 

“Các cuộc khảo sát cho thấy những mục tiêu được nêu trên chỉ là những mục tiêu biểu kiến, những mục tiêu giả định, hay nói đúng hơn, chỉ là những chiêu bài…

 

“Nh́n chung, tuy gọi là bốn cuộc ‘thánh chiến’, nhưng các cuộc chiến này đều nhắm vào mục tiêu chính trị, tôn giáo chỉ là một chiêu bài. Chúng ta hăy nghe cựu Tổng Thống Nixon nói về điều này trong cuốn No More Vietnams (Arbor House, 1985):

 

·        ‘Việc cho rằng có sự đàn áp Phật Giáo là hoàn toàn bịa đặt. Ông Diệm đă cử nhiệm những viên chức cao cấp không căn cứ vào tín ngưỡng của họ. Trong số 18 vị Bộ Trưởng có 5 theo Công Giáo, 5 theo Khổng Giáo, và 8 theo Phật Giáo, kể cả Phó Tổng Thống và Bộ Trưởng Ngoại Giao. Trong 38 Tỉnh Trưởng th́ có 12 người theo Công Giáo, 26 người theo Phật Giáo hay Khổng Giáo. Trong 19 tướng lănh, có 3 theo Công Giáo và 16 theo Cao Đài, Khổng Giáo hay Phật Giáo. Ông Diệm đă miễn nghĩa vụ quân sự cho các tăng sĩ Phật Giáo, trong khi người Công Giáo và các tín đồ khác phải thi hành nghĩa vụ này. Không một Phật tử nào đă bị bắt v́ hành đạo và không một bằng chứng đáng tin cậy nào có thể minh chứng ông Diệm đă đàn áp Phật Giáo’ (trang 65)…

 

‘Trong đầu óc của họ, đàng sau cơn biến động là chính trị chứ không phải tôn giáo. Một ít người có tham vọng chính trị đă cạo đầu, mặc áo thày tu và điều khiển cuộc biến động tiến lên theo đúng lịch tŕnh của họ. Lănh tụ của họ là Thích Trí Quang, họ điều hành công việc từ chùa Xá Lợi ở Saigon…

 

Thích Trí Quang vừa t́m cách lừa đảo thế giới vừa lừa đảo các nạn nhân của ông để đạt tới mục tiêu chính trị cuối cùng của ông. Khi ông Diệm đă nhượng bộ tất cả các mục tiêu hợp lư, Thích Trí Quang lại đưa ra những đ̣i hỏi không hợp lư để duy tŕ cuộc biến động tồn tại. Ông ta không quan tâm đến sự đồng thuận mà quan tâm đến sự bất đồng. Một tăng sĩ ở chùa Xá Lợi đă hỏi một kư giả: ‘Cần bao nhiêu người tự thiêu nữa để loại bỏ ông Diệm?’… (trang 65-67)

 

Trong thời gian Liên Hiệp Quốc điều tra những sự cáo buộc ông Diệm, hai thanh niên Phật Giáo được ngăn chặn không cho tự thiêu đă khai Tổng Hội Phật Giáo của Thích Trí Quang đă tuyển mộ họ như thế nào. Cả hai được nghe kể những chuyện kinh khủng về chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đốt chùa, đánh đập, tra tấn và mổ bụng moi ruột Phật tử. Một người nói người đi tuyển mộ đă nói cho anh ta biết ‘Hội Phật Giáo hoạt động cho Cộng Sản’ và Hội cần 10 người t́nh nguyện tự thiêu. Sau khi anh ta t́nh nguyện, người tuyển mộ nói rằng ‘nhóm phát động tự thiêu sẽ sắp xếp mọi sự’. Công việc này gồm có việc cung cấp cho anh ta một cái áo có tẩm xăng, lái anh ta đến một nơi công cộng, viết cho anh ta những lá thư phản kháng để đưa cho các báo chí đang chờ đợi.

 

‘Người kia từ một tỉnh xa xôi tới đă nói anh ta rất giận dữ khi nghe kể chuyện ông Diệm đă đốt các chùa ở Saigon. Anh ta t́nh nguyện chết khi anh ta được thuyết phục rằng hành động như vậy anh ta có thể được đầu thai thành Phật. Anh ta được đưa vào thành phố và được cẩn thận dẫn đi những đường không đi ngang qua các chùa để đến nơi tự thiêu. Khi họ đổi lộ tŕnh v́ đường bị chặn, anh ta bất chợt gặp một ngôi chùa ở đó các Phật tử đang niệm Phật một cách b́nh an vô sự. Lúc đó anh ta tự động đến nộp ḿnh cho cảnh sát’ (trang 65-67, 33-38

 

·        “Trong Bạch Thư công bố ngày 31.12.1993, Ḥa Thượng Thích Tâm Châu kết luận:

 

‘Sự việc rơ ràng như thiên thanh bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hỗ trợ ngầm của Cộng Sản nằm vùng, lải nhải vu khống cho Việt Nam Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội…

 

‘Cho đến nỗi những vị Tăng không biết chút ǵ về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng, Ni, Phật tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và Cộng Sản nằm vùng trong suốt 30 năm nay. Thực tội nghiệp’”.

 

Về Khổng Giáo, việc đụng độ giữa các Nho gia với Thiên Chúa giáo trong thời phong kiến thứ kỷ XVII và XVIII, cũng như dưới triều đại Nhà Nguyễn thế kỷ XIX, đă được nhắc đến ở chương trước, hay tại Triều Tiên vào thế kỷ XVIII cũng đă như được nhắc đến ở trang 200.

 

Đạo lư Kitô giáo, hay Phúc Âm của Chúa Kitô do Giáo Hội Người tuân giữ và truyền dạy cũng vậy, không phải là mục tiêu chống đối cho một số tín đồ của các đạo giáo khác mà thôi, mà c̣n là mục tiêu chống đối của chính con cái trong ḷng Giáo Hội nữa. Không kể 92 lạc giáo trong Giáo Hội qua 20 thế kỷ, cùng với những sai lầm của chủ xướng Cải Cách ở thế kỷ XVI (41 điều), của Hội Kín Tam Điểm (12 điều), của Trào Lưu Cấp Tiến (80 điều) cũng như của Chủ Nghĩa Tân Tiến cận đại (65 điều) v.v. (xin xem chi tiết của tất cả các liệt kê này trong cuốn Giáo Lư Cẩm Nang của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, Cao- Bùi, 1999), ngày nay, trong hầu hết các văn kiện chính thức của Giáo Hội, trong cả các cuộc họp hoàn vũ của Giáo Hội, như năm Cuộc Thượng Hội Giám Mục Địa Lục, Phi Châu (10/4-8/5/1994), Mỹ Châu (16/11-12/12/1997), Á Châu (19/4-14/5/1998), Đại Dương Châu (21/11-12/12/1998), Âu Châu lần hai (1-23/10/1999), đều nhắc đến t́nh trạng khô đạo (indifferentism) và tục hóa (secularization), một t́nh trạng làm cho Kitô hữu sống theo theo tinh thần duy nhân bản (secular humanism), đến nỗi, đ̣i hỏi Giáo Hội tự bản chất là một mầu nhiệm phải trở nên hợp thời hơn theo thể chế dân chủ như các quốc gia trên thế giới, trong đó, đàn bà cũng có quyền làm linh mục như nam giới.

 

Trong cuộc gặp gỡ Hội Đồng Giám Mục Đức ngày 20/11/1999, dịp ad limina đợt ba của một số các vị sang Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đă thẳng thắn nhận định và mạnh mẽ thúc giục các vị chủ chiên địa phương này về những vấn đề căng thẳng nhức nhối ấy:

 

·        “Chúng ta không được quên rằng chính Giáo Hội, một ‘dấu hiệu và dụng cụ hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể loài người’, là một mầu nhiệm. Đó là lư do chương đầu tiên của Hiến Chế Tín Lư Ánh Sáng Muôn Dân mang tựa đề ‘Mầu Nhiệm Giáo Hội”. Bởi thế, Giáo Hội không thể nào được đổi mới thực sự trừ phi chúng ta bắt đầu từ bản tính mầu nhiệm của Giáo Hội. Điều Công Đồng minh nhiên nói lên ấy đă được Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Ngoại Lệ nhóm họp 20 năm sau khi kết thúc công đồng này nhắc lại: ‘V́ Giáo Hội hiệp thông với Thiên Chúa là Cha và Con Thánh Thần mà Giáo Hội, trong Chúa Kitô, là ‘mầu nhiệm’ của t́nh yêu Thiên Chúa nơi lịch sử loài người’ (Sứ Điệp, II). Sự thật này phải nói lên giáo huấn, thừa tác vụ và hoạt động mục vụ của toàn thể Giáo Hội. Niềm xác tín này cũng là nền tảng của tất cả mọi văn kiện thuộc Huấn Quyền giáo hoàng hậu công đồng, những văn kiện nhắm đến việc bảo tŕ việc canh tân theo các nhu cầu hiện đại. (đoạn 2)

 

“Ngoài ra, cũng cần phải lưu ư, Thượng Hội Giám Mục Ngoại Lệ 1985 này đă buộc ḷng phải lên tiếng cảnh giác là: các vị Giám Mục tham dự cuộc họp công nhận rằngviệc đọc Công Đồng không trọn vẹn và tùy ư, việc tŕnh bày Giáo Hội một chiều như là một cơ cấu thuần túy làm mất đi tính cách mầu nhiệm của Giáo Hội’, đă đưa đến những thiếu sót trầm trọng, nhất là nơi một số tổ chức giáo dân ‘coi Giáo Hội chỉ là một cơ cấu’ (Văn Kiện Đúc Kết, I, 4). Do đó, nhiều người cho ḿnh có quyền tổ chức Giáo Hội như là một tổ hợp đa quốc và như thế hoàn toàn lệ thuộc vào một thứ quyền bính loài người. Thực ra, Giáo Hội với tính cách mầu nhiệm không phải là ‘của chúng ta’ mà là ‘của Người’, tức Giáo Hội là Dân của Thiên Chúa, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. (đoạn 3)

·        “Chúng ta đang ở vào thời điểm cuối của việc sửa soạn cho Cuộc Mừng Long Trọng Năm 2000. Năm nay được dâng kính ngôi thứ nhất trong Ba Ngôi thần linh. Việc suy niệm về Thiên Chúa Ngôi Cha đă đưa Giáo Hội đến chỗ, như Thánh Cyprianô tóm tắt trong một câu nẩy lửa: ‘Ai không có Thiên Chúa là Cha th́ người đó cũng không có Giáo Hội là Mẹ’ (De ecclesiae catholicae unitate, 6). (đoạn 4)

 

Con cái nam nữ của Giáo Hội phải đáp lại cảm xúc từ mẫu của Giáo Hội bằng đức tuân phục thật t́nh. Vào lúc mà ở ngoài xă hội, nhất là ở bên trong Giáo Hội, thường hay nhắc đến việc trưởng thành th́ càng ngày càng thấy có một thái độ tỏ ra cho thấy tự do thực sự có thể chiếm được bằng ‘việc cắt cuống rốn tách ĺa khỏi Giáo Hội’. Là Giám Mục, Quí Huynh đang cố gắng sửa chữa những khuynh hướng lầm lạc ấy, bằng việc rao giảng một cách rơ ràng và không mập mờ, cũng như bằng việc sống những ǵ bao giờ cũng là qui luật sống đối với các vị đại thánh, nghĩa là cho dù bản thân các vị có gặp những trường hợp khó khăn, các vị cũng không bao giờ ĺa xa ḷng Giáo Hội. Tôi xin trở lại với việc so sánh của Thánh Cyprianô với kết luận thế này: chỉ có những ai nghe Mẹ Giáo Hội mới là người tuân phục Thiên Chúa là Cha. Vị Giám Mục Thành Căn-Thạc này đă khai triển tư tưởng ấy bằng việc vạch ra cho thấy những hậu quả trầm trọng vẫn c̣n có thể xẩy ra từ thời của thánh nhân: “Bất cứ cái ǵ tách khỏi ḷng mẹ th́ không thể nào tự ḿnh sống động hay hít thở được, trái lại, nó sẽ bị mất đi cơ hội được cứu độ” (De ecclesiae catholicae unitate, số 23). (đoạn 6)